Lý thuyết cơ bản sóng
Elliott:
Giới
thiệu:
Lý thuyết sóng Elliott được phát triển bởi R.N. Elliott và
phổ biến bởi Robert Prechter. Lý thuyết này khẳng định hành vi của đám đông
cũng tăng lên hay giảm xuống như sóng thủy triều trong một xu hướng rõ ràng.
Dựa trên nguyên lý thủy triều này, Elliott đã xác định được một cấu trúc mà giá
cả dịch chuyển trong thị trường tài chính.
Một chu kỳ hoàn chỉnh có 8 sóng, được chia làm 2 loại sóng
cơ bản: sóng đẩy (impulse) và sóng hiệu chỉnh (corrective). Hai loại song này
luôn nằm trong một sóng lớn hơn (sóng trong sóng). Khi sóng lớn (I) là tăng,
các Sóng tăng (1,3,5) là các sóng đẩy, và các Sóng (2,4) là sóng hiệu chỉnh.
Sóng (II) là sóng giảm chứa 3 sóng (a,b,c). Sóng a, c được gọi là sóng đẩy và b
là sóng hiệu chỉnh trong Sóng (II). Sóng (I) cũng là sóng đẩy, Sóng (II) được
xem là sóng hiệu chỉnh.
Ba quy tắc (3-Rules):
+
Quy tắc 1: Sóng 2 không thể hồi (retrace) hơn 100% Sóng 1.
+
Quy tắc 2: Sóng 3 không bao giờ là sóng ngắn nhất trong các
sóng đẩy.
Ba hướng dẫn (3- Guidelines):
+
Nguyên tắc 1: Khi Sóng 3 là sóng dài nhất, Sóng 5 sẽ xấp xỉ
bằng Sóng 1.
+
Nguyên tắc 2: Cấu tạo Sóng 2 và Sóng 4 sẽ thay thế nhau. Nếu
Sóng 2 là sóng hiệu chỉnh phức tạp,
mạnh (sharp) thì Sóng 4 sẽ hiệu chỉnh đơn giản, phẳng (flat) và ngược lại.
+
Nguyên tắc 3: Sau 5 sóng đẩy tăng, sóng hiệu chỉnh (a,b,c)
thường kết thúc tại vùng đáy của của
sóng 4 trước đó.
Kết luận:
Các phần giới thiệu ở trên chỉ là cơ bản về lý thuyết
Elliot. Với các quy tắc, hướng dẫn như trên, một Nhà phân tích đồ thị khó có
thể cải thiện được khả năng đếm sóng. Việc đếm sóng Elliot thường được bắt đầu
bằng cách loại trừ. Áp dụng các quy tắc cho lần đếm thử đầu tiên, sau đó tới các
nguyên tắc thứ 2. Loại bỏ các đếm vi phạm và rút ra các đếm chính xác hơn. Ngay
cả khi được cho là đếm chính xác, Nhà phân tích đồ thị cũng phải liên tục đánh
giá và điều chỉnh cách đếm mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét